XtGem Forum catalog
BLOG TRUYỆN MA

Đứa pé ăn mày

Đứa pé ăn mày
Nó là thằng bé ăn mày tội
nghiệp. Hơn thế, lại mù. Chiếc
quần bẩn khó xác định màu
rách bươm cả hai ống cho
thấy không chỉ người mà lũ
chó cũng chẳng thích nó. Hai
ống tay áo đen bóng vì luôn
được dùng làm khăn lau mũi.
Ðầu nó đội chiếc mũ cói méo
mó hơi hất về phía sau, để
lộ khuôn mặt đói ăn gầy đét,
xạm nắng, và nhất là hai hố
mắt trắng dã càng làm tăng
thêm vẻ thảm hại đáng sợ.
Có thể nó chủ ý phô ra thế
để người ta thương hại mà
cho chút gì chăng? Vì mù, nó
phải chống gậy, chiếc gậy
trúc già bằng ngón tay cái,
trơn nhẵn và cũng gầy đanh
như nó. Sau khi thận trọng
gõ hai lần xuống đất, nó mới
đi một bước. Nó lặng lẽ đi
giữa trời nắng chang chang,
chiếc bị, cũng bằng cói, đeo
sát nách, và hình như còn
lép kẹp hơn bụng nó.
Không ai biết nó từ đâu tới.
Thứ nhất vì đây là lần đầu
tiên nó xuất hiện ở làng
Thượng. Thứ hai, đơn giản
vì những loại như nó không
đáng được người ta quan
tâm. Mà rồi lúc ấy đang giữa
trưa nắng gắt chẳng có ai
gần đấy ngoài một thằng bé
khác trạc tuổi nó, cũng
nhếch nhác, nhưng vì không
ăn mày nên to khỏe hơn và
cũng lành lặn hơn. Thằng
này đang chổng đít cố búng
viên bi thủy tinh vào một lỗ
nhỏ trước mặt dưới bóng cây
đa cụt đầu làng. Nó đang cáu
vì búng mãi không vào đúng
lỗ. Ðã thế, viên bi bị búng
mạnh quá lăn đi đâu mất. Nó
thất vọng định đứng dậy bỏ
về nhà ăn trưa thì bất chợt
nhìn thấy thằng ăn mày khốn
khổ. Nó thấy có cái gì đấy
vừa buồn cười vừa khó chịu
ở vẻ ngoài và cách dò
đường hai cộc một bước của
thằng kia. Ðôi mắt trắng dã
làm nó, vốn bực mình vì mất
viên bi, càng thêm khó chịu.
Cứ như viên bi của nó đã
bay vào nằm gọn trong hố
mắt thằng kia. Một ý nghĩ
chợt lóe lên. Nhẹ và rón rén
như con mèo săn chuột, nó
bước lại gần thằng ăn mày,
bất chợt giật lấy chiếc gậy
trúc rồi chạy nhanh về phía
gốc đa.
Thằng bé ăn mày kêu ới ới ,
hai cánh tay khẳng khiu bất
lực huơ huơ phía trước. Ai
trả lại chiếc gậy cho tôi đi!
Trả lại đi, đừng đùa thế! Trả
lại đi!... Giọng nó yếu lắm,
chắc vì đói. Chờ mãi không
thấy ai trả lại gậy, nó đành
dò dẫm đi tiếp, điệu bộ trông
thật buồn cười, cứ như nó
đang lấy thăng bằng đi trên
dây thép trong rạp xiếc. Bây
giờ thay cho gõ gậy, nó thận
trọng uớm thử chân hai lần
trước mỗi bước đi. Bằng cách
ấy nó có thể không vấp
ngã, nhưng khốn nỗi điều
quan trọng đối với nó là
hướng đi chứ không phải đi
như thế nào. Mà hướng nó
đang đi tới hiện giờ là chiếc
giếng thơi sâu rộng đầy
nước của làng Thượng.
Ngồi dưới gốc đa, thằng chơi
bi thích thú quan sát điều
này.
Ở các làng khác, giếng nước
ăn luôn có bờ gạch bao
quanh, là điều dễ hiểu, thế
mà bao đời nay giếng làng
Thượng không hề có cái bờ
gạch bao quanh ấy, lại sát
đường đi, nên nhiều lần trẻ
con và cả trâu bò rơi xuống
đó, nhưng luôn vào lúc đông
người nên được vớt lên kịp.
Khốn khổ thằng bé ăn mày.
Nó cũng bị sẩy chân ngã
xuống giếng và đã chết, vì
bờ giếng lát gạch trơn chẳng
có gì để bấu víu, vì nó quá
yếu do đói ăn, vì xung
quanh không có ai để vớt nó
lên. Còn thằng bé chơi bi lếu
láo kia thì thấy vậy liền
hoảng sợ bỏ chạy về nhà...
Chuyện này xảy ra đã mấy
chục năm nay, nhưng dân
làng Thượng vẫn nhớ. Mà
không chỉ có nhớ.
Phải ba ngày sau xác thằng
bé mới nổi lên. Người ta chôn
nó ở nghĩa địa Ðồng Chùa
như chôn nhiều người vô gia
cư chết đói trước đấy. Khác
chăng, mộ của nó nhỏ hơn
một chút, vì nó là con nít. Có
điều đáng ngạc nhiên là
không hiểu sao cái mộ bé
nhỏ ấy của nó cứ mỗi ngày
một lớn thêm, đến mức lấn át
cả mộ cụ tổ họ Phạm thế lực
nhất trong làng. Thường
người ta vui với những
trường hợp như thế. Phát mả
đồng nghĩa với phát tài,
phát lộc, nhưng đây lại là mả
một thằng bé ăn mày, vậy thì
phát gì? Phát nghề ăn mày
à? Các vị chức sắc trong
làng không giấu nổi vẻ lo
lắng mơ hồ về một tai hoạ
nào đó đang treo lơ lửng
trên đầu. Cuối cùng cái tai
họa ấy đã đến.
Sau nhiều năm liền mất mùa
vì thiên tai, nhiều người làng
Thượng xách bị đi ăn xin xứ
người. Lúc đầu người ta
không chú ý mấy đến hiện
tượng này, vì xưa nay ăn
mày chẳng hiếm. Nhưng khi
số lượng gia tăng một cách
đáng lo ngại, người ta bắt
đầu nghĩ đến cái mả ăn mày
phát kia. Sao các làng lân cận
đói ăn chẳng kém mà chẳng
mấy người làm cái nghề nhục
nhã ấy? Vậy chắc đây là đòn
báo oán của thằng bé nọ. Ðể
giảm bớt tai hoạ, người ta
xây mộ xi măng cho nó, bây
giờ đã được gọi là Ông. Mấy
năm sau xây miếu hẳn hoi,
có bàn thờ và được hương
khói cẩn thận đúng dịp, đúng
quy cách. Dần dần, khi người
ta thấy nghề ăn xin cũng
không đến nỗi nào cả về thu
nhập lẫn quan niệm xã hội
(người làng Thượng bỏ nhà
đi ăn xin có giấy chứng nhận
đàng hoàng của xã, kèm
theo chiếc dấu tròn đỏ chói).
Tự lúc nào không biết, thằng
bé ăn mày tội nghiệp nghiễm
nhiên trở thành thành hoàng
của làng Thượng, thay chỗ
một vị tướng lừng danh thời
Lê Mạc. Dần dần trong dân
gian, tên làng cũng được gọi
khác - Làng Ăn Mày!
*
Chính tôi là thằng bé chơi bi
láo lếu ấy đấy, ông ạ , ông
M. thở dài nói.
Ông là hàng xóm của tôi.
Hàng xóm với nghĩa nhà
cạnh nhau chứ giữa nghề
viết lách của tôi và nghề
buôn sắt vụn phát đạt của
ông chẳng có gì liên quan.
Ông quý tôi vì tôi nhiều chữ.
Tôi chơi với ông vì ông
nhiều tiền mà không hợm
mình, và cả vì ông đồng ý
để chúng tôi luân phiên nhau
trả tiền bia ở quán Gió Mới
bên cầu Long Biên. Xưa nay
ông nổi tiếng hảo tâm, một
nhà từ thiện đích thực. Có lẽ
ông đã cúng tới hàng chục,
nếu không muốn nói hàng
trăm triệu đồng cho mục đích
cao cả ấy, mà đối tượng bao
giờ cũng là những đứa trẻ
mù. Trường Nguyễn Ðình
Chiểu coi ông như ân nhân.
Một số trường khiếm thị ở
các địa phương khác cũng
vậy.
Tất nhiên lúc ấy tôi chẳng
dám cho ai biết tôi đã làm
thằng bé ăn mày phải chết, -
ông nói tiếp sau khi uống
một hơi hết sạch vại bia. -
Tôi hối hận và sợ lắm. May
mà tháng sau bố tôi, một cán
bộ cỡ ở Tổng cục Thống kê,
đưa cả nhà lên sống hẳn ở
Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi
chẳng một lần dám trở lại
làng Thượng. Vì sao thì ông
biết. Tuy vậy, tôi biết hết
mọi chuyện xảy ra ở làng.
Tôi hỏi thật nhé: Ông có mê
tín không?
Không , tôi đáp.
Ông có tin vào báo ân, báo
oán không?
Tôi không tin. Sao ông hỏi
vậy? Ông tin à?
Ông M. trầm ngâm một chốc
rồi nói, vẻ bần thần:
Cả có mà cả không. Nhưng tôi
cứ thấy nó thế nào ấy, nhất
là thời gian gần đây. Có lẽ tôi
già rồi đâm lẩn thẩn. Nói ông
đừng cười, đêm nào nằm ngủ
tôi cũng nghe tiếng gõ chiếc
gậy trúc của thằng bé kia và
tiếng kêu yếu ớt Ai đó trả lại
gậy cho tôi, đừng đùa. Tình
hình có vẻ như ngày càng tồi
tệ. Tôi chẳng biết phải tính
sao đây. Ông khuyên tôi làm
gì bây giờ?
Tôi ngồi im vì chẳng biết trả
lời thế nào.
Hay ông đi khám bác sĩ thần
kinh, - cuối cùng tôi lên
tiếng. - Thời này khối người
căng thẳng như ông. Tôi
cũng chẳng hơn gì. Còn
chuyện thằng bé thì chỉ do
ông hay nghĩ đến nó mà
tưởng tượng ra thôi , tôi an
ủi, mặc dù tự biết ở đây có
cái gì đó nghiêm trọng và
đáng sợ hơn nhiều.
Mấy hôm sau, trước lời năn
nỉ của ông M., và cũng vì tò
mò, tôi nhận lời cùng đi với
ông về làng Thượng, Làng
Ăn Mày.
Ông M. thắp hương, lầm rầm
khấn vái hồi lâu trước bàn
thờ thành hoàng làng mình.
Trước đấy tôi cũng thắp một
nén, gọi là tưởng nhớ vong
linh thằng bé xấu số. Tôi tế
nhị bỏ ra ngoài để ông được
tự nhiên sám hối, hi vọng sẽ
thanh thản hơn đôi chút.
Bằng đức tính nhân từ vốn
có và những việc làm từ
thiện xưa nay, ông xứng
đáng được hưởng một tuổi
già thanh thản.
Tối hôm ấy chúng tôi ngủ lại
nhà một người bà con xa của
ông M.. Nhà ngói hẳn hoi, có
tivi, có đài, anh con trai chủ
nhà còn có cả xe máy, xe
Nhật chứ chẳng phải Tàu. Từ
lâu dân làng Thượng không
còn xách bị đi ăn xin, nhưng
người ta vẫn thành kính thờ
cúng ông tổ ăn mày của làng.
Ngôi mộ của ông đã phát
càng phát thêm, nay gần
giống một cái gò nhỏ, trẻ con
không dám cho trâu bò dẫm
lên.
Nửa đêm, tôi đang ngủ say
sau một ngày đi đường vất
vả thì bị ông M. túm tay áo
giật mạnh. Ông hoảng hốt thì
thầm:
Ông nhìn kìa. Ngài đấy!
Ngài nào? tôi ngạc nhiên hỏi
vì chẳng thấy gì.
Thần hoàng làng Thượng!
Ðứa bé ăn mày...
Ông M. không nói hết câu,
liền sụp xuống đất, vái lạy
liên hồi:
Con xin ngài tha tội. Dạ, con
xin ngài tha tội. Con trót dại...
Con chỉ đùa... Lúc ấy con còn
nhỏ... Con xin ngài tha tội!
Con xin ngài...
Ông làm sao thế? - tôi định
đỡ ông dậy nhưng ông
không chịu. - Tôi có thấy gì
đâu! Ông vái lạy ai đấy?
Quả tôi không thấy gì thật.
Nhưng ông M. vẫn tiếp tục
cầu khẩn van xin. Dẫu
chẳng tin ma quỷ và không
thuộc loại nhát gan, tôi vẫn
thấy ớn lạnh khắp người.
Lát sau, ông M. im lặng ngồi
rũ xuống sàn nhà, thở hổn
hển:
Ngài đi rồi. Ði mà chẳng nói
gì cả. Nghĩa là ngài không
tha thứ cho tôi. Trời ơi, tôi
phải làm gì bây giờ?...
Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần
chiếc công tắc điện để bật
đèn. Ông M. mặt cắt không
còn hột máu. Ông ngồi yên
trong tư thế ấy rất lâu, cuối
cùng, như để xác minh về
sự hiện diện có thật của
ngài , ông quay sang tôi,
chìa ra một viên bi thủy tinh
bóng loáng dưới ánh đèn.
Ngài để lại đấy!
*
Sau đó có việc, tôi đi công
tác xa ba tháng. Lúc về thì
được tin ông M. đã chết.
Người ta kể rằng ông hóa
điên, đi đâu cũng ngửa tay
xin ăn như thằng ăn mày. Bị
con cháu nhốt trong nhà và
cả ở bệnh viện tâm thần,
gặp ai ông cũng xin. Có
người cho hòn đá, ông rối rít
cảm ơn, xúc động đến rơi
nước mắt.
Một hôm, ông khôn khéo trốn
khỏi bệnh viện. Ðến tối thì
có người thấy ông nằm chết
trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu
Chui Gia Lâm. Vì ao hầu như
không có nước, chỉ toàn
bùn, nên ông không chìm. Ấy
thế mà ông chết. Một điều lạ
nữa là lúc chết ông đeo
chiếc bị cói sát nách, tay giữ
chặt chiếc gậy trúc già trơn
bóng, những thứ trước đấy
chưa ai nhìn thấy bao giờ.
Một người nhân đức nhường
ấy mà phải chết thế thì thật
tội nghiệp , ông trưởng dân
phố nơi ông M. sống bùi ngùi
nói khi người ta liệm ông vào
quan tài
Quay lại
This post has no comments - be the first one!

UNDER MAINTENANCE

Blog Truyen Kinh Di,Truyen Ma Ngan,Truyen Ma full,Blog Ma,Blog Kinh Di

Bạn đang xem

Bạn có thể Chia Sẻ bài viết này lên FaceBook
U-ON
Bộ đếm
VỀ TRANG CHỦ
TruyenVOZ.Hexat.Com
Tags: http://truyenvoz.hexat.com/blugma/index
SEO : Bạn đến từ : ....................... .